Báo cáo ngành Dầu khí năm 2023: Giá dầu không tăng mạnh như năm 2022 nhưng vẫn sẽ neo ở mức cao.

0
82

BÁO CÁO NGÀNH DẦU KHÍ NĂM 2023

  1. Kỳ vọng giá dầu Brent đạt mức trung bình 90 USD/thùng (-10% svck) trong năm 2023.

Giá dầu tăng vọt 72% so với đầu năm, đạt mức đỉnh trên 133 USD/thùng vào đầu tháng 3 sau khi chiến tranh Nga-Ukraine nổ ra, gây tắc nghẽn chuỗi cung ứng toàn cầu đối với cả dầu mỏ và nhiên liệu chưng cất. Tuy nhiên, giá dầu sau đó đã điều chỉnh 37% xuống chỉ còn khoảng 85 USD/thùng vào cuối năm 2022 do nhu cầu chững lại và lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu. Giá dầu thô Brent trung bình trong năm 2022 là 100 USD/thùng, tăng mạnh 42% so với cùng kỳ.

các tổ chức lớn trên thế giới vẫn dự bá giá dầu sẽ phần nào giảm bớt so với đỉnh năm 2022 nhưng vẫn sẽ duy trì ở mức co trên 90 USD/thùng.

Đối với năm 2023, nhu cầu dầu thô toàn cầu có thể sẽ giảm tốc do những trở ngại đến từ đồng USD mạnh hơn, chính sách zero-Covid của Trung Quốc và cuộc khủng hoảng Nga – Ukraine. Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA) dự báo nhu cầu toàn cầu sẽ tăng 1, % svck, đạt mức trung bình 101,0 triệu thùng/ngày cho cả năm 2023 (so với mức tăng 2,2% svck trong năm 2022). Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy ít có khả năng TT rơi vào tình trạng dư cung do những lo ngại về nhu cầu tiêu thụ chậm lại có thể được xoa dịu bởi những động thái từ phía nguồn cung (đặc biệt là từ OPEC+), hỗ trợ giá dầu duy trì ở mức cao trong năm tới. Về cơ bản, chúng tôi kỳ vọng giá dầu Brent trung bình sẽ đạt khoảng 90 USD/thùng vào năm 2023.

  1. Thượng nguồn: Trong khi tiếp tục chờ đợi sự khởi động của các dự án khí lớn, chúng tôi nhận thấy tiềm năng đến từ một số dự án quy mô nhỏ.

Luật Dầu khí sửa đổi tạo hành lang pháp lý mới giúp thu hút đầu tư vào lĩnh vực thượng nguồn.

Luật Dầu khí sửa đổi được thông qua vào tháng 11 sẽ là khung pháp lý tổng quát cho ngành Dầu khí, giảm bớt sự chồng chéo giữa các luật trong hoạt động Dầu khí. Chúng tôi thấy một số điểm nổi bật trong phiên bản sửa đổi lần này như sau:

Điều này sẽ thu hút thêm đầu tư (đặc biệt là đầu tư nước ngoài) vào lĩnh vực dầu khí Việt Nam, giúp tạo thêm cơ hội cho các công ty thượng nguồn trong dài hạn.

Trong khi tiếp tục chờ đợi sự khởi động của các dự án dầu khí lớn, chúng tôi nhận thấy tiềm năng đến từ một số dự án quy mô nhỏ.

Đối với dự án Lô B – Ô Môn được chờ đợi lâu nay, nhà máy điện Ô Môn III vẫn đang chờ phê duyệt kế hoạch sử dụng vốn ODA. Do khung giá khí từ Lô B đã được phê duyệt từ năm 2016, việc trì hoãn kéo dài đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của kế hoạch ban đầu đối với các nhà máy hạ nguồn do lạm phát và đồng USD tăng giá. Do đó, cần có thời gian để sửa đổi kế hoạch và đệ trình Chính phủ. Đáng chú ý, theo một số nguồn tin trong ngành, dự án này có thể phải đối mặt với một sự gián đoạn khác khi nhà điều hành dự kiến sẽ cho đấu thầu lại gói thấu EPC giàn xử lý trung tâm (CPP) ngoài khơi.

Trái ngược với các dự án mỏ khí lớn kể trên, các dự án khác liên quan đến phát triển các mỏ hiện hữu như dự án mở rộng mỏ dầu Bạch Hổ, dự án khai thác mỏ dầu Kình Ngư Trắng (Lô 09-2/09) đã được phê duyệt trong vài tháng qua. Các dự án này sẽ bù đắp một phần cho sự cạn kiệt sản lượng của các mỏ lâu năm. Nhờ mặt bằng giá dầu cao và có thể kết nối với hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài khơi sẵn có, chúng tôi tin rằng các dự án này sẽ sớm được triển khai, cung cấp cơ hội việc làm cho các nhà cung cấp dịch vụ Dầu khí trong nước, trước hết là cho các nhà cung cấp dịch vụ khoan và nhà thầu EPC.

(nửa đầu năm 2023 nên tập trung vào các DN hoạt có hoạt động ở các mỏ khí nhỏ đang hoạt động, nửa sau 2023 khi dự kiến có kế hoạch FID cho Block B nên tập trung vào các DN trúng thầu ở mỏ khí lớn này)

TT khoan tại Đông Nam Á (ĐNÁ) đang trên đà phục hồi, là tín hiệu tốt cho các công ty cung cấp dịch vụ khoan trong năm 2023.

Ngành khoan dầu có thể được hưởng lợi từ nhu cầu khoan tăng lên ở khu vực APAC và Trung Đông, giúp triển vọng tốt hơn cho giá thuê ngày. Nhu cầu chính đến từ các thị trường quốc tế như Indonesia, Malaysia và Trung Đông. Tại Đông Nam Á, tổng tỷ lệ sử dụng giàn khoan JU trên thị trường đạt 90% vào tháng 8 năm 2022, trong khi giá thuê theo ngày ổn định ở mức khoảng 90 nghìn USD/ngày trong ba tháng qua, với một số hợp đồng ghi nhận mức giá thuê 100 nghìn USD/ngày, theo IHS Markit. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 2015 giá thuê ngày ghi nhận mức cao như vậy.

Theo quan điểm của chúng tôi, một trong những lý do chính cho diễn biến tích cực như vậy trong ngành khoan xuất phát từ sự thay đổi gần đây trong triển vọng năng lượng toàn cầu. Trong những năm trước, giá dầu thấp và xu hướng trung hòa carban dẫn đến việc nhiều jhu vực hướng tới các nguồn năng lượng tái tạo (gió, mặt trời, hydro,…). Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng năng lượng gần đây ở châu Âu do xung đột Nga-Ukraine gây ra đã mang lại triển vọng tích cực hơn cho nhiên liệu hóa thạch. Trong báo cáo triển vọng dầu của OPEC gần đây nhất, OPEC dự kiến nhu cầu dầu toàn cầu sẽ tăng 10 triệu thùng/ngày lên 107 triệu thùng/ngày vào năm 2027, với phần lớn tăng trưởng đến từ các khu vực ngoài OECD.

  1. Trung nguồn: nhóm vận tải dầu khí hưởng lợi theo đà tăng giá cước.

Phân phối LNG: Những trở ngại toàn cầu sẽ làm chậm quá trình chuyển dịch sang điện khí LNG

Theo Dự thảo Quy hoạch phát triển điện 8 (QHĐ8), điện khí LNG sẽ là một trong những nguồn năng lượng quan trọng nhất nhờ khả năng sản xuất điện ổn định và có thể dễ dàng nâng công suất thông qua nhập khẩu với các dự án nhà máy điện đang (và sắp) được triển khai như Nhơn Trạch 3& , Sơn Mỹ hay Bạc Liêu. Tuy nhiên, do giá LNG tăng vọt trên toàn cầu do cuộc khủng hoảng Nga – Ukraine kéo dài, chúng tôi cho rằng xu hướng chuyển dịch sang điện khí LNG sẽ bị trì hoãn trong ngắn hạn, do giá thành cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của LNG cũng như tiến độ của các nhà máy điện liên quan. Trong số các dự án được đề cập, kho cảng LNG Thị Vải được dự kiến sẽ hoàn thành xây dựng vào cuối năm nay và đưa vận hành thương mại trong năm 2023, đánh dấu dự án LNG đầu tiên đi vào hoạt động tại Việt Nam.

Vận tải dầu khí: Hưởng lợi theo đà tăng giá cước.

Nhu cầu đối với tàu chở dầu thô và nhiên liệu tăng lên kể từ khi EU áp đặt các lệnh trừng phạt đối với Nga, và chúng tôi kỳ vọng xu hướng này sẽ tiếp tục duy trì trong những tháng tới khi lệnh cấm vận của EU có hiệu lực vào cuối năm nay. Đáng chú ý, với việc là một nguồn nhiên liệu có thể thay thế cho khí trong sản xuất điện, chúng tôi cho rằng nhu cầu diesel tại châu Âu sẽ tiếp tục tăng trong những tháng tới, làm gia tăng nhu cầu đối với tàu chở nhiên liệu. Hơn nữa, việc chuyển hướng dòng chảy năng lượng từ Nga đã làm thay đổi các tuyến đường vận chuyển, khiến quãng đường dài hơn và gây áp lực lên TT vận tải tàu chở dầu toàn cầu.

Đối với TT nội địa, chúng tôi nhận thấy nhu cầu vận tải Dầu khí sẽ tăng dần trong vài năm tới nhờ việc BSR và NSR hoạt động hết công suất (ngoại trừ BSR vào năm 2023 do đợt bảo dưỡng định kỳ) và nhu cầu tiêu thụ xăng dầu ngày càng tăng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, giá thuê tàu đã phục hồi về mức trước Covid kể từ năm 2022, là tín hiệu tốt cho các đơn vị vận tải Dầu khí.

(Theo đà tăng giá cước tàu chở dầu trên toàn cầu, chúng tôi cho rằng DN vận tải tham gia nhiều vào thị trường quốc tế và nắm vị trí dẫn đầu tại thị trường nội địa như PVT sẽ là DN được hưởng lợi chính.)

  1. Hạ nguồn: Tiềm năng phục hồi mạnh mẽ của lĩnh vực phân phối xăng dầu trrong năm 2023.

Phân phối xăng dầu: Hướng đến một năm tích cực hơn ở phía trước

Năm 2022 là một năm đầy thách thức đối với các DN phân phối xăng dầu do thị trường trong nước có nhiều bất ổn. Nhà máy lọc dầu (NMLD) Nghi Sơn hoạt động dưới công suất trong nửa đầu năm và việc chậm điều chỉnh các chi phí cấu thành giá cơ sở xăng dầu đã khiến các nhà phân phối gặp rất nhiều khó khăn, khiến nguồn cung trong nước bị thiếu hụt.

Sang năm 2023, chúng tôi tin tưởng vào tiềm năng phục hồi mạnh của các DN phân phối lớn (từ mức nền thấp của năm 2022) nhờ một số lý do sau:

  • Giá dầu thế giới dự kiến sẽ có diễn biến ổn định hơn so với năm 2022, giúp giảm thiểu rủi ro đánh giá lại hàng tồn kho.
  • Vừa qua, Chính phủ đã ban hành cơ chế để PVN xử lý vấn đề tài chính đối với Lọc hóa dầu Nghi Sơn (NSR). Đây sẽ là tiền đề để NSR hoạt động ổn định trong những năm tới, giúp tăng tỷ trọng nguồn cung nội địa và giảm áp lực chi phí nhập khẩu cho các DN phân phối.
  • Các chi phí định mức cấu thành giá cơ sở xăng dầu đã được cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh tăng trong tháng 10 và 11. Chúng tôi cho rằng sự điều chỉnh này sẽ phản ánh sát hơn diễn biến thị trường, giảm bớt áp lực cho các thương nhân kinh doanh xăng dầu.
  • Nhu cầu tiêu thụ xăng dầu của Việt Nam được dự báo sẽ đạt tốc độ tăng trưởng kép là , % trong giai đoạn 2022-30, là cơ sở để các DN phân phối tăng trưởng trong những năm tới. Chúng tôi cũng cho rằng các DN phân phối lớn như PLX, OIL có thể có thêm được thị phần từ các DN nhỏ khác, vốn có khả năng sẽ bị loại khỏi thị trường sau một năm 2022 đầy khó khăn.

Lọc dầu: Crack spreads dự kiến sẽ duy trì ở mức cao, là tín hiệu tốt cho các NMLD, nhưng lợi nhuận dường như đã tạo đỉnh trong năm 2022.

Trong 6T22, crack spread các sản phẩm lọc dầu, đặc biệt là crack spread dầu diesel đã tăng rất mạnh trên toàn cầu kể từ khi Nga tấn công Ukraine vào tháng 2 do: (1) lo ngại về sự thiếu hụt nguồn cung ở châu Âu khi người mua tránh nguồn cung đến từ Nga do các lệnh trừng phạt, (2) các NMLD ngừng hoạt động ở Mỹ và châu Âu, và hoạt động với công suất thấp tại Trung Quốc, và (3) sự gia tăng hoạt động vận tải đường bộ, kéo theo nhu cầu nhiên liệu gia tăng.

Mặc dù crack spread xăng đã giảm đáng kể kể từ tháng 7/2022, crack spread diesel vẫn duy trì ở mức rất cao nhờ vào tính đa dụng của nó như làm nhiên liệu cho các phương tiện vận tải và đặc biệt là làm nguồn nhiên liệu cho máy phát điện diesel (thay thế cho điện khí). Điều này đã mang lại khoản lợi nhuận khổng lồ cho các NMLD như BSR với mức lãi kỷ lục trong 9T22.

Nhìn chung, chúng tôi kỳ vọng biên LN lọc dầu sẽ giảm trong năm 2023 nhưng vẫn sẽ duy trì ở mức cao so với trước khủng hoảng Nga – Ukraine do: (1) nhu cầu phục hồi sau đại dịch, (2) thị trường dầu thô và xăng dầu thành phẩm tiếp tục thắt chặt do cuộc khủng hoảng Nga – Ukraine kéo dài, đặc biệt là ở châu Âu, và (3) việc cắt giảm phát thải carbon sẽ làm hạn chế sự gia tăng công suất lọc dầu trong dài hạn.

  1. Tác động trái chiều của đà tăng lãi suất và biến động tỷ giá lên các DN Dầu khí niêm yết

Lãi suất cao hơn sẽ có tác động đáng kể đến toàn bộ nền kinh tế cũng như ngành Dầu khí trong thời gian tới. Chúng tôi thấy tác động trái chiều của môi trường lãi suất tăng lên các DN Dầu khí niêm yết phụ thuộc vào tình hình tài chính của mỗi doanh nghiệp:

  • Đối với các DN có số dư tiền mặt ròng dồi dào và hệ số nợ/VCSH thấp, chúng tôi cho rằng môi trường lãi suất tăng có thể sẽ mang lại lợi ích cho các DN này trong ngắn hạn, hỗ trợ cho KQKD của các DN. Mức độ ảnh hưởng của đà tăng lãi suất sẽ phụ thuộc vào tỷ trọng đóng góp của thu nhập lãi thuần vào KQKD của công ty. Qua đó, chúng tôi nhận thấy PVS và OIL sẽ là những DN được hưởng lợi chính.
  • Ngược lại, một số DN có tỷ lệ đòn bẩy cao (như PVD, PVT và PVC) sẽ gặp khó khăn khi lãi suất tăng. Đặc biệt, PVD sẽ chịu áp lực lớn từ lãi suất tăng trong bối cảnh hoạt động kinh doanh cốt lõi phục hồi chậm.

Quan điểm cá nhân: nhìn chung ngành Dầu khí vẫn là một trong các ngành đầy triển vọng trong năm 2023, tuy nhiên mức độ tăng trưởng cũng như chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố vĩ mô sẽ khác nhau. Chính vì vậy, việc lựa chọn cổ phiếu đầu tư sẽ khác nhau tùy theo phong cách đầu tư ngắn hay dài hạn. Nhìn chung, cổ phiếu có các yếu tố cơ bản tốt cũng như hưởng lợi từ vĩ mô như GAS, PVS (sức khỏe doanhn nghiệp tốt, lượng tiền mặt cao,…), PLX ( doanh thu gần như đã đạt đáy vào năm 2022, kỳ vọng năm 2023 có sự hồi phục vượt trội trở lại )

(Nguồn: SSI, VND)

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here