GIÁ ĐIỆN BÁN LẺ TĂNG 3% TÁC ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN THỊ TRƯỜNG ?

0
98

 

  1. Cập nhật ngành điện

Sản lượng điện thương phẩm cả nước năm 2022 đạt 268 tỷ kWh (+6% YoY). Trong đó nhiệt điện than chiếm 39% đạt 105 tỷ kWh (-11% YoY), thủy điện được hỗ trợ bởi hiệu ứng La Nina, chiếm 35% tổng sản lượng điện cả nước, đạt 95 tỷ kWh (+21% YoY). Tua bin khí đóng góp 30 tỷ kWh (+13% YoY), chiếm 11%. Điện gió ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng +179% YoY, đạt 9 tỷ kWh. Riêng mảng Điện Mặt Trời ghi nhận giảm -8% YoY, xuống còn 26 tỷ kWh.

Xét theo Công suất lắp đặt quốc gia đạt 79.651 MW vào cuối năm 2022, tăng +4% so với cùng kỳ. Công suất điện than tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 33% đạt 25.820 MW (+5% YoY), thủy điện chiếm 28% đạt 22.349 MW (+2% YoY), điện khí chiếm 11% đạt 8.977 MW (+26% YoY). Về công suất lắp đặt mảng năng lượng tái tạo (không gồm thủy điện) chiếm 26% đạt 20.670 MW, không thay đổi so với cùng kỳ năm ngoái.

  1. Tác động việc tăng giá điện đến thị trường

Trong 10 năm, tính từ 2009-2019, giá bán lẻ điện bình quân đã có 10 lần điều chỉnh tăng, mức tăng trung bình giai đoạn này đạt 10%/năm. Điện đang chiếm khoảng 3,5% tổng cấu thành rổ tính CPI nên điện nếu tăng 3% thì làm trực tiếp CPI tăng 0,105%, còn tăng 5% thì CPI tăng 0,175%.

  • Tích cực:
  • Đối với ngành điện: trên thực tế các công ty ngành điện đã thỏa thuận dài hạn khi ký hợp đồng mua bán điện với EVN, nên việc tăng giá bán điện bình quân trong ngắn hạn chưa thể tác động đến doanh thu doanh nghiệp sản xuất.
  • Với những doanh nghiệp phân phối điện, việc tăng giá điện có thể tác động tích cực, vì hợp đồng đã ký dài hạn với giá rẻ, nay bán giá cao, giúp lợi nhuận doanh nghiệp nhiều khả năng sẽ tăng.
  • Tiêu cực:

Điện chiếm tỷ trong tương đối trong giá vốn hàng bán của một số doanh nghiệp sản xuất nên khi giá điện tăng làm tăng chi phí sản xuất từ đó tác động đến lợi nhuận của một số doannh nghiệp như:

  • Chi phí điện chiếm khoảng 9-10% giá vốn hàng bán đối với doanh nghiệp sản xuất thép, mức này cũng tương đương với doanh nghiệp thuộc ngành hóa chất.
  • Riêng lĩnh vực xi măng chiếm khoảng 14-15% trên giá vốn hàng bán (GVHB), trừ những doanh nghiệp lớn có lò quay xi măng thì chi phí điện chiếm khoảng 9-10% giá vốn hàng bán.
  • Với doanh nghiệp sản xuất giấy, ước tính chi phí điện chiếm tỷ trọng thấp hơn một vài ngành khác, chiếm trung bình 4-5% trên chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.

Với giả định, nếu chi phí điện tăng thêm, doanh nghiệp không thể chuyển tiếp sang người tiêu dùng. Chúng tôi ước tính, chi phí điện tăng 3% làm cho GVHB tăng thêm, thì tổng lợi nhuận trước thuế (LNTT) của từng ngành có thể giảm tối đa tương ứng là: LNTT ngành Thép giảm 15%, LNTT ngành Giấy giảm 2%, LNTT ngành Xi Măng giảm 13%, LNTT ngành Hóa Chất giảm 1%. Như vậy, có thể dễ dàng nhận thấy sự sụt giảm đáng kể của lợi nhuận khi chi phí điện tăng thêm làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

(Nguồn: Mirae Asset)

 

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here