PHÂN TÍCH DOANH NGHIỆP TCB
KẾT QUẢ KINH DOANH QUÝ 3:
BCTC hợp nhất vừa công bố cho thấy Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank, HOSE: VCB) lãi trước thuế quý 3 hơn 7,566 tỷ đồng, tăng 32% so với cùng kỳ. Tổng nợ xấu cuối quý 3 tăng 47%.
Riêng quý 3, thu nhập lãi thuần của Vietcombank tăng 31% so với cùng kỳ, thu được gần 13,664 tỷ đồng. Các nguồn thu ngoài lãi sụt giảm so với cùng kỳ như lãi từ dịch vụ (-2%), lãi từ hoạt động khác (-14%). Hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh lỗ 154 tỷ đồng và mua bán chứng khoán đầu tư lỗ 1.2 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ có lãi. Trong quý này, Vietcombank trích hơn 2,778 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng (+11%), do đó Ngân hàng lãi trước thuế hơn 7,566 tỷ đồng, tăng 32% so với cùng kỳ.
Lũy kế 9 tháng đầu năm, Vietcombank giảm 3% chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, chỉ còn trích gần 7,786 tỷ đồng; Ngân hàng lãi trước thuế gần 24,940 tỷ đồng, tăng 29%.
TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ:
Lợi nhuận tăng trưởng mạnh. Lợi nhuận tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ nhờ tín dụng tăng trưởng, NIM mở rộng và lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ngoại hối gia tăng. So sánh với quý liền kề, LNST của Vietcombank tăng 2,2% QoQ. Một số chỉ tiêu cụ thể như sau:
Tín dụng tăng trưởng cao.
Vietcombank đã tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong nửa đầu năm nhờ hạn mức tín dụng cao trong bối cảnh hạn mức tín dụng toàn ngành tương đối hạn chế. Mức tăng tín dụng chậm lại trong Quý 3 khi hạn mức tín dụng không còn nhiều. Tính tới hết Quý 3/2022, tổng tín dụng Vietcombank đạt mức 1.141 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% QoQ tương đương với 17,4% YTD.
Tăng trưởng tín dụng trong Quý 3 được trải đều trên cả ba nhóm là khách hàng doanh nghiệp lớn, SME và khách hàng cá nhân. Cuối Quý 3/2022, VCB chỉ nắm giữ 11.255 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp, giảm 4,9%% YTD và giảm 3% QoQ. Tỷ trọng nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp trên tổng tín dụng của Vietcombank chỉ ở mức 1%. Đây là mức rất thấp giúp cho Vietcombank giảm thiểu khả năng chịu tác động tiêu cực trực tiếp từ trái phiếu doanh nghiệp.
MIN giảm nhẹ so với quý liền kề.
Quý 3/2022, NIM Vietcombank đạt mức 3,26% giảm 7 bps so với quý liền kề và tăng 24 bps so với cùng kỳ. Mức giảm của NIM đến từ lợi suất sinh lợi trên tài sản tăng chậm so với với mức tăng chi phí vốn. Lợi suất sinh lợi trên tài sản tăng 8 bps so với quý liền kề và tăng 24 bps so với cùng kỳ do lãi suất cho vay tăng lên theo xu hướng chung của toàn ngành. NIM của Vietcombank ít chịu áp lực hơn so với các ngân hàng thường mại cổ phần nhưng có thể vẫn sẽ tiếp tục có sự suy giảm nhẹ trong Quý 4.
Chất lượng tài sản suy giảm nhẹ nhưng vẫn ở nhóm đầu.
Các chỉ tiêu chất lượng tài sản của Vietcombank có sự suy giảm nhẹ so với cuối Quý 2/22 như: (1) Tỷ lệ nợ xấu tăng 19 bps lên mức 0.8%; (2) tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm 103% về mức 402%, đây vẫn là mức rất cao và dẫn đầu trong các ngân hàng niêm yết ở Việt Nam; (3) số ngày phải thu tăng 1 ngày lên 33 ngày, đây là mức thấp tương đương với các ngân hàng tập trung bán lẻ.
Điểm tích cực là nợ nhóm 2/cho vay khách hàng giảm 18 bps so với Quý 2/22 về mức 0,36% và nợ tái cấu giảm từ 4 nghìn tỷ đồng cuối Quý 2 về còn 2,9 nghìn tỷ đồng. Với mức giảm tương đối mạnh của nợ tái cơ cấu thì Vietcombank được hoàn nhập lại khoản trích lập dự phòng của những món nợ tái cơ cấu này. Tuy nhiên, chi phí dự phòng trong Quý 3 vẫn ở mức cao cho thấy nhiều khả năng Vietcombank tiếp tục đẩy mạnh thực hiện trích lập dự phòng để tạo ra bộ đệm tốt hơn cho thời gian tới.
Thu nhập phí dịch vụ tăng mạnh so với Quý 2.
Mức lãi thuần từ hoạt động dịch vụ tăng mạnh so với quý liền kề nhờ Vietcombank không còn thực hiện ghi giảm phí trả trước trong Quý 2 (do Vietcombank đã ghi nhận phí trả trước cả năm trong Quý 1/2022). Trong Quý 4, Vietcombank sẽ ghi nhận khoảng 850 tỷ đồng phí trả trước giúp cho thu nhập từ phí dịch vụ tiếp tục tăng mạnh so với Quý 3.
RỦI RO.
– Rủi ro lạm phát tăng cao, kéo theo ngân hàng tăng lãi suất huy động, nhưng lãi suất cho vay khó tăng tương ứng sẽ làm giảm khả năng mở rộng NIM của ngân hàng.
– Rủi ro liên quan đến việc nhận chuyển giao bắt buộc tổ chức tín dụng yếu kém.